Biến tần là gì? Các công bố khoa học về Biến tần

Biến tần (hay còn được gọi là inverter) là một thiết bị điện tử được sử dụng để điều chỉnh hay thay đổi mức điện áp và tần số của nguồn điện đầu vào để phù hợp ...

Biến tần (hay còn được gọi là inverter) là một thiết bị điện tử được sử dụng để điều chỉnh hay thay đổi mức điện áp và tần số của nguồn điện đầu vào để phù hợp với yêu cầu cụ thể của hệ thống. Biến tần thường được sử dụng để điều chỉnh tốc độ và điều khiển động cơ. Nó có thể biến đổi nguồn điện một chiều thành nguồn điện xoay chiều, và ngược lại. Biến tần còn được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống điện mặt trời và hệ thống điều hòa không khí.
Biến tần là một thiết bị điện tử có khả năng biến đổi nguồn điện đầu vào từ một dạng vào (ví dụ: điện áp thay đổi, tần số thay đổi) thành một dạng ra khác (ví dụ: điện áp đổi, tần số đổi) để phù hợp với yêu cầu của hệ thống.

Với đặc tính này, biến tần được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng điều khiển tốc độ và điều khiển động cơ, như trong công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và gia đình. Bằng cách điều chỉnh tần số và điện áp đầu ra của biến tần, người dùng có thể điều chỉnh tốc độ vòng quay của động cơ theo ý muốn, giúp tiết kiệm điện năng và tăng hiệu suất hoạt động.

Nguyên lý hoạt động của biến tần là chuyển đổi nguồn điện đầu vào sang dạng sóng hình sin, thường là một sóng vuông hoặc sóng hình sin có biên độ và tần số điều chỉnh. Sau đó, sóng điện được biến đổi sang dạng sóng hình sin ưu đãi để đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định và tránh tác động đến thiết bị điện tử được điều khiển.

Biến tần được điều khiển thông qua bộ điều khiển, thường là bộ điều khiển logic (PLC) hoặc bộ điều khiển thông minh (SCADA). Bộ điều khiển này được sử dụng để lập trình, kiểm soát và giám sát các thông số tần số, điện áp và dòng điện của biến tần.

Một số lợi ích của việc sử dụng biến tần bao gồm:

- Tiết kiệm năng lượng: Biến tần giúp điều chỉnh tốc độ và mức công suất tiêu thụ của động cơ, giúp tiết kiệm điện năng khi không cần hoạt động ở mức tối đa.
- Điều khiển chính xác: Biến tần cho phép điều chỉnh tốc độ và vận hành động cơ theo các thông số cụ thể và đạt được độ chính xác cao.
- Bảo trì dễ dàng: Biến tần cung cấp thông tin về trạng thái hoạt động, mức độ hao mòn và cảnh báo khi có lỗi xảy ra, giúp giảm thời gian và chi phí bảo trì.
- Ổn định và linh hoạt: Biến tần giúp điều chỉnh tốc độ động cơ và tải, giảm các xung đột và bùng nổ tải, đảm bảo hoạt động ổn định và linh hoạt của hệ thống.
- Máy móc và thiết bị không bị sốc điện: Biến tần giúp điều chỉnh mức đầu ra điện áp và tần số, giảm nguy cơ thiết bị bị cháy nổ hoặc hư hỏng do dao động điện áp không ổn định.

Tổng quát, biến tần chủ yếu được sử dụng để điều chỉnh tốc độ và điều khiển động cơ trong các hệ thống công nghiệp và dân dụng, đem lại hiệu suất hoạt động tối ưu và tiết kiệm năng lượng.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "biến tần":

Đột Biến EGFR Trong Ung Thư Phổi: Mối Liên Quan Đến Đáp Ứng Lâm Sàng Với Liệu Pháp Gefitinib Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 304 Số 5676 - Trang 1497-1500 - 2004

Các gen thụ thể tyrosine kinase đã được giải trình tự trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) và mô bình thường tương ứng. Đột biến soma của gen thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì\n EGFR đã được phát hiện trong 15 trong số 58 khối u không được lựa chọn từ Nhật Bản và 1 trong số 61 từ Hoa Kỳ. Điều trị bằng chất ức chế kinase nach EGFR gefitinib (Iressa) gây thoái lui khối u ở một số bệnh nhân NSCLC, thường xuyên hơn ở Nhật Bản.\n EGFR Đột biến đã được tìm thấy trong các mẫu ung thư phổi bổ sung từ bệnh nhân Hoa Kỳ phản ứng với liệu pháp gefitinib và trên một dòng tế bào ung thư biểu mô tuyến phổi rất nhạy cảm với sự ức chế tăng trưởng của gefitinib, nhưng không có trong các khối u hoặc dòng tế bào không nhạy cảm với gefitinib. Những kết quả này cho thấy rằng\n EGFR đột biến có thể dự đoán độ nhạy cảm với gefitinib.

#EGFR #đột biến #ung thư phổi #liệu pháp gefitinib #đáp ứng lâm sàng #Nhật Bản #Hoa Kỳ #ung thư biểu mô tuyến #NSCLC #nhạy cảm #ức chế tăng trưởng #somatic mutations
Đột Biến Gen α-Synuclein Được Xác Định Trong Cộng Đồng Gia Đình Bệnh Parkinson Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 276 Số 5321 - Trang 2045-2047 - 1997

Bệnh Parkinson (PD) là một rối loạn thần kinh thoái hóa phổ biến với tỷ lệ mắc cả đời khoảng 2 phần trăm. Một mẫu gia tăng phát tích trong gia đình đã được ghi nhận đối với rối loạn và gần đây đã có báo cáo rằng một gen gây nhạy cảm với PD trong một gia đình lớn ở Ý được định vị trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 4 của người. Một đột biến đã được xác định trong gen α-synuclein, mã hóa cho một protein tiền synapse được cho là có liên quan đến tính dẻo thần kinh, trong gia đình Ý và ba gia đình không có quan hệ quen biết có nguồn gốc Hy Lạp với di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường đối với kiểu hình PD. Phát hiện này về một thay đổi phân tử cụ thể liên quan đến PD sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu chi tiết cơ chế bệnh sinh của rối loạn này.

#Bệnh Parkinson #Đột biến gen #α-synuclein #Thần kinh học #Di truyền học #Tính dẻo thần kinh #Di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường #Nhiễm sắc thể số 4 #Gia tăng phát tích
Các Kiểm Định Thống Kê Về Tính Trung Lập Của Các Đột Biến Đối Chiếu Với Tăng Trưởng Dân Số, Hiện Tượng Hitchhiking và Lựa Chọn Nền Dịch bởi AI
Genetics - Tập 147 Số 2 - Trang 915-925 - 1997

Mục đích chính của bài báo này là trình bày một số kiểm định thống kê mới về tính trung lập của các đột biến chống lại một lớp mô hình thay thế, trong đó các đa hình DNA có xu hướng thể hiện sự dư thừa của các alen hiếm hoặc các đột biến trẻ. Mục đích khác là nghiên cứu sức mạnh của các kiểm định hiện có và các kiểm định mới phát triển, cũng như xem xét chi tiết mô hình đa hình dưới ảnh hưởng của sự tăng trưởng dân số, hiện tượng hitchhiking di truyền và lựa chọn nền. Kết quả cho thấy rằng các mô hình đa hình trong một mẫu DNA dưới sự tăng trưởng dân số logistic và hiện tượng hitchhiking di truyền rất giống nhau và một trong các kiểm định mới phát triển, FS, mạnh hơn nhiều so với các kiểm định hiện có trong việc bác bỏ giả thuyết về tính trung lập của các đột biến. Lựa chọn nền tạo ra các mô hình đa hình hoàn toàn khác với sự tăng trưởng dân số logistic hoặc hiện tượng hitchhiking di truyền, mặc dù tất cả chúng đều cho thấy sự dư thừa của các alen hiếm hoặc các đột biến trẻ. Chúng tôi chỉ ra rằng các kiểm định của Fu và Li là một trong những kiểm định mạnh nhất chống lại lựa chọn nền. Các hệ quả của những kết quả này sẽ được thảo luận.

Sự sụp đổ bất thường của các vòm băng tại eo biển Nares dẫn đến việc xuất khẩu băng biển Bắc Cực gia tăng Dịch bởi AI
Nature Communications - Tập 12 Số 1
Tóm tắt

Các vòm băng thường hình thành ở hai đầu bắc và nam của eo biển Nares đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết xuất khẩu băng biển đa niên từ Đại dương Bắc Cực. Đại dương Bắc Cực đang tiến triển thành một khối băng trẻ hơn, mỏng hơn và di động hơn, và số phận của băng đa niên ngày càng trở nên quan trọng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng dữ liệu vận động băng từ hình ảnh Sentinel-1 để báo cáo về hành vi gần đây của các vòm băng này và các dòng chảy băng liên quan. Chúng tôi chỉ ra rằng thời gian hình thành vòm băng đã giảm trong 20 năm qua, trong khi cả diện tích và thể tích băng dọc theo eo biển Nares đều gia tăng. Những kết quả này cho thấy một quá trình chuyển tiếp đang diễn ra tới một trạng thái mà sự hình thành của những vòm này sẽ trở nên không điển hình, kèm theo đó là sự gia tăng xuất khẩu băng đa niên, thúc đẩy quá trình chuyển đổi tới khối băng Bắc Cực trẻ và mỏng hơn.

#băng biển Bắc Cực #eo biển Nares #vòm băng #xuất khẩu băng
Kháng sinh Tetracycline: Cơ chế tác dụng, Ứng dụng, Sinh học phân tử và Dịch tễ học của Kháng khuẩn Kháng Khuẩn Dịch bởi AI
Microbiology and Molecular Biology Reviews - Tập 65 Số 2 - Trang 232-260 - 2001
TÓM TẮT

Tetracyclines được phát hiện vào những năm 1940 và cho thấy hoạt tính chống lại nhiều vi sinh vật bao gồm vi khuẩn gram dương và gram âm, chlamydiae, mycoplasma, rickettsiae và ký sinh trùng nguyên sinh. Đây là những loại kháng sinh ít tốn kém, đã được sử dụng rộng rãi trong dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn ở người và động vật cũng như ở mức độ dưới điều trị trong thức ăn chăn nuôi để thúc đẩy tăng trưởng. Vi khuẩn kháng tetracycline đầu tiên, Shigella dysenteriae, được phân lập vào năm 1953. Kháng tetracycline hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều trong các vi khuẩn gây bệnh, cơ hội và cộng sinh. Sự hiện diện của các tác nhân kháng tetracycline hạn chế việc sử dụng các chất này trong điều trị bệnh. Kháng tetracycline thường là do sự thu nhận gen mới, mã hóa cho sự bơm đẩy tetracycline phụ thuộc năng lượng hoặc cho một loại protein bảo vệ ribosome của vi khuẩn khỏi tác động của tetracycline. Nhiều trong số các gen này liên quan đến plasmid di động hoặc transposon và có thể được phân biệt với nhau bằng các phương pháp phân tử bao gồm lai ghép DNA-DNA với đầu dò oligonucleotide và giải trình tự DNA. Một số lượng ít vi khuẩn có được sự kháng bệnh thông qua đột biến, thay đổi tính thấm của porin màng ngoài và/hoặc lipopolysaccharides trong màng ngoài, thay đổi điều tiết của hệ thống bơm đẩy bẩm sinh, hoặc thay đổi 16S rRNA. Đang có các dẫn xuất mới của tetracycline được nghiên cứu, mặc dù vai trò của chúng trong điều trị chưa rõ ràng. Cần thay đổi việc sử dụng tetracycline trong sức khỏe con người và động vật cũng như trong sản xuất thực phẩm nếu chúng ta muốn tiếp tục sử dụng loại kháng khuẩn phổ rộng này trong thế kỷ hiện tại.

#tetracycline #kháng rửa #kháng sinh #kháng khuẩn #vi khuẩn kháng #chlamydiae #mycoplasma #rickettsiae #động vật nguyên sinh #gen di động #hóa sinh #lai ghép DNA-DNA #16S rRNA #plasmid #transposon #đột biến #dịch tễ học #sức khỏe động vật #sản xuất thực phẩm
Điều hòa quá trình lành vết thương bằng các yếu tố tăng trưởng và cytokine Dịch bởi AI
Physiological Reviews - Tập 83 Số 3 - Trang 835-870 - 2003

Werner, Sabine và Richard Grose. Điều hòa quá trình lành vết thương bằng các yếu tố tăng trưởng và cytokine. Physiol Rev 83: 835–870, 2003; doi:10.1152/physrev.00032.2002.—Quá trình lành vết thương trên da là một quá trình phức tạp bao gồm đông máu, viêm nhiễm, hình thành mô mới và cuối cùng là tái tạo mô. Quá trình này đã được mô tả rõ ràng ở cấp độ mô học, nhưng các gen điều tiết sự hồi phục của da chỉ được xác định một phần. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng đã chứng minh những tác động đa dạng, nhưng trong hầu hết các trường hợp là tích cực, của các yếu tố tăng trưởng ngoại sinh đối với quá trình lành vết thương. Tuy nhiên, vai trò của các yếu tố tăng trưởng nội sinh phần lớn vẫn chưa rõ. Các phương pháp ban đầu nhằm giải quyết câu hỏi này tập trung vào phân tích biểu hiện của các yếu tố tăng trưởng, cytokine và các thụ thể của chúng trong các mô hình vết thương khác nhau, với dữ liệu chức năng đầu tiên được thu thập thông qua việc áp dụng kháng thể trung hòa cho các vết thương. Trong những năm gần đây, sự xuất hiện của chuột được biến đổi gen đã cho phép làm sáng tỏ chức năng của các gen khác nhau trong quá trình lành vết thương, và các nghiên cứu này đã làm sáng tỏ vai trò của các yếu tố tăng trưởng, cytokine và các tác nhân hiệu ứng thứ cấp trong sự hồi phục vết thương. Bài tổng quan này tóm tắt các kết quả nghiên cứu biểu hiện đã được thực hiện trên chuột, lợn và người để xác định vị trí của các yếu tố tăng trưởng và các thụ thể của chúng trong các vết thương da. Quan trọng nhất, chúng tôi cũng báo cáo về các nghiên cứu di truyền nhằm giải thích chức năng của các yếu tố tăng trưởng nội sinh trong quá trình hồi phục vết thương.

#Yếu tố tăng trưởng #cytokine #quá trình lành vết thương #di truyền học #chuột biến đổi gen #nghiên cứu biểu hiện #kháng thể trung hòa #viêm nhiễm #tái tạo mô #hồi phục da
Một biến thể di truyền phổ biến trong vùng không phiên mã 3' của gen prothrombin liên quan đến mức prothrombin huyết thanh cao và tăng nguy cơ hình thành huyết khối tĩnh mạch Dịch bởi AI
Blood - Tập 88 Số 10 - Trang 3698-3703 - 1996

Chúng tôi đã khảo sát gen prothrombin như một gen ứng cử viên cho huyết khối tĩnh mạch ở những bệnh nhân được chọn có tiền sử gia đình về thrombophilia tĩnh mạch đã được ghi nhận. Tất cả các exon và vùng 5′-UT và 3′-UT của gen prothrombin đã được phân tích bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase và giải trình tự trực tiếp ở 28 bệnh nhân. Ngoại trừ các vị trí đa hình đã biết, không phát hiện sự biến đổi nào trong các vùng mã hóa và vùng 5′-UT. Chỉ có một sự thay đổi nucleotide (chuyển từ G sang A) tại vị trí 20210 được xác định trong chuỗi của vùng 3′-UT. Mười tám phần trăm bệnh nhân có kiểu gen 20210 AG, so với 1% trong nhóm đối chứng khỏe mạnh (100 đối tượng). Trong một nghiên cứu trường hợp - đối chứng dựa trên dân số, allele A 20210 được xác định là một allele phổ biến (tần suất allele, 1.2%; khoảng tin cậy 95%, 0.5% đến 1.8%), làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tới gần ba lần (tỉ lệ odds, 2.8; khoảng tin cậy 95%, 1.4 đến 5.6). Nguy cơ huyết khối tăng ở mọi độ tuổi và giới tính. Một sự liên quan được tìm thấy giữa sự hiện diện của allele A 20210 và mức prothrombin cao. Phần lớn các cá nhân (87%) với allele A 20210 nằm trong tứ phân vị cao nhất của mức prothrombin huyết thanh (> 1.15 U/mL). Mức prothrombin cao cũng được phát hiện là một yếu tố nguy cơ cho huyết khối tĩnh mạch.

#gen prothrombin #huyết khối tĩnh mạch #allele A 20210 #mức prothrombin huyết thanh #đa hình gen
Các Biến Chứng và Tác Dụng Phụ của Opioid Dịch bởi AI
Pain Physician - Tập 2s;11 Số 3;2s - Trang S105-S120 - 2008

Các loại thuốc kết hợp với thủ thể opioid ngày càng được kê đơn nhiều hơn để điều trị các tình trạng đau mãn tính đa dạng và khác nhau. Việc sử dụng chúng để giảm đau cấp tính hoặc đau giai đoạn cuối đã được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, vai trò của chúng trong việc điều trị lâu dài cho đau mãn tính không do ung thư lại gây tranh cãi vì nhiều lý do. Một trong những lý do chính là hiện tượng nghiện tâm lý nổi tiếng có thể xảy ra khi sử dụng các loại thuốc này. Sự lạm dụng và chuyển hướng của các loại thuốc này đang trở thành một vấn đề ngày càng gia tăng khi tính sẵn có của các loại thuốc này tăng lên, và vấn đề sức khỏe cộng đồng này làm rối loạn hiệu quả lâm sàng của chúng. Hơn nữa, mức độ hiệu quả của chúng trong việc điều trị đau khi được sử dụng lâu dài chưa được chứng minh rõ ràng. Cuối cùng, vai trò của opioid trong điều trị đau mãn tính còn bị ảnh hưởng bởi việc chúng thường liên quan đến một số lượng lớn các tác dụng phụ và biến chứng đáng kể. Chính những hiện tượng này là trọng tâm của bài đánh giá này. Các tác dụng phụ phổ biến của việc sử dụng opioid bao gồm buồn ngủ, chóng mặt, buồn nôn, nôn, táo bón, sự phụ thuộc về mặt thể chất, dung sai, và suy hô hấp. Sự phụ thuộc thể chất và nghiện là những mối quan tâm lâm sàng có thể ngăn ngừa việc kê đơn đúng cách và dẫn đến chăm sóc đau không tối ưu. Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn có thể bao gồm chậm làm rỗng dạ dày, nhạy cảm đau, rối loạn miễn dịch và nội tiết, cứng cơ, và co giật cơ. Các tác dụng phụ phổ biến nhất của việc sử dụng opioid là táo bón (có tỷ lệ rất cao) và buồn nôn. Hai tác dụng phụ này có thể rất khó kiểm soát và thường không phát triển sự dung sai; điều này đặc biệt đúng với táo bón. Chúng có thể nghiêm trọng đến mức cần ngừng sử dụng opioid, và đóng góp vào liều lượng thấp và chăm sóc đau không đầy đủ. Một số thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để xác định các liệu pháp bổ sung có thể giảm nhẹ các tác dụng phụ này. Việc chuyển đổi opioid và/hoặc đường dùng thuốc cũng có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân. Sàng lọc bệnh nhân đúng cách, giáo dục, và điều trị dự phòng các tác dụng phụ tiềm tàng có thể giúp tối đa hóa hiệu quả và giảm bớt mức độ nghiêm trọng của tác dụng phụ và biến cố không mong muốn. Opioid có thể được coi là các tác nhân giảm đau phổ rộng, ảnh hưởng đến một số lượng lớn các hệ cơ quan và ảnh hưởng đến nhiều chức năng cơ thể. Từ khóa: Opioid, morphine, methadon, fentanyl, oxycodone, hydrocodone, oxymorphone, codeine, biến cố bất lợi, ma túy, tác dụng phụ, táo bón, sự phụ thuộc, mất thính giác, dung sai, nghiện, tăng cảm thụ đau

#Opioid #morphine #methadon #fentanyl #oxycodone #hydrocodone #oxymorphone #codeine #biến cố bất lợi #ma túy #tác dụng phụ #táo bón #buồn ngủ #mất thính giác #dung sai #nghiện #tăng cảm thụ đau
Một Đột Biến Adenovirus Nhân Giác Xuất Hiện Chọn Lọc Trong Các Tế Bào Ung Thư Người Thiếu p53 Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 274 Số 5286 - Trang 373-376 - 1996

Gen E1B của adenovirus người mã hóa một protein 55-kilodalton có khả năng làm bất hoạt protein ức chế khối u p53 của tế bào. Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng một adenovirus đột biến không biểu hiện protein virus này có thể nhân bản và ly giải các tế bào ung thư người thiếu p53 nhưng không thể ở các tế bào có p53 chức năng bình thường. Sự biểu hiện ngoài của protein E1B 55-kilodalton trong các tế bào này đã khiến chúng nhạy cảm với nhiễm virus đột biến. Tiêm virus đột biến vào các khối u cổ tử cung người thiếu p53 được nuôi trong chuột nude đã gây ra sự giảm kích thước khối u đáng kể và hoàn toàn thoái lui ở 60 phần trăm khối u. Dữ liệu này nâng cao khả năng rằng các adenovirus đột biến có thể được sử dụng để điều trị một số khối u ở người.

#adenovirus #p53 #protein ức chế khối u #ung thư #khối u cổ tử cung #điều trị khối u
Sự xuất hiện của virus HIV-1 kháng thuốc ở bệnh nhân điều trị đơn thuốc ức chế fusion (T-20) Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 46 Số 6 - Trang 1896-1905 - 2002
TÓM TẮT

Peptit tổng hợp T-20 (enfuvirtide) đại diện cho loại thuốc kháng retrovirus mới đầu tiên cho thấy hiệu lực in vivo bằng cách nhắm vào một bước trong quá trình xâm nhập của virus. T-20 ức chế sự thay đổi cấu hình trong glycoprotein xuyên màng HIV-1 loại 1 (gp41) của virus HIV, sự thay đổi này là cần thiết cho sự hợp nhất giữa HIV-1 và màng tế bào mục tiêu. Giai đoạn thử nghiệm lâm sàng phase I đầu tiên của điều trị T-20 cho bệnh nhân nhiễm HIV đã cung cấp một cơ hội độc đáo để đánh giá sự xuất hiện của virus kháng thuốc in vivo đối với loại thuốc kháng retrovirus mới này. Tất cả bốn bệnh nhân được nhận một liều trung bình T-20 (30 mg hai lần mỗi ngày) đều có sự giảm đáng kể trong tải lượng virus huyết tương trong 10 ngày đầu nhưng có xu hướng tăng lên vào ngày thứ 14, cho thấy có sự chọn lọc cho virus kháng. Virus huyết tương được thu thập từ bệnh nhân tham gia vào tất cả các nhóm liều lượng trong thử nghiệm phase I T-20 đã được phân tích bằng phương pháp giải trình tự quần thể trước và sau điều trị. Mặc dù không có đột biến nào được phát hiện trong một chuỗi 3 axit amin rất bảo tồn (GIV) được biết là quan trọng cho sự hợp nhất tại cơ sở, sau 14 ngày điều trị, virus từ một bệnh nhân trong nhóm liều 30 mg (30-1) đã phát triển một đột biến trong motif này, cụ thể là sự thay thế axit aspartic (D) cho glycine (G) tại vị trí 36. Nhiều dòng env đã được thu nhận từ virus huyết tương của cả bốn bệnh nhân trong nhóm liều 30 mg. Phân tích chuỗi của 49 dòng thu được từ huyết tương của bệnh nhân 30-1 vào ngày thứ 14 cho thấy 25 dòng chứa đột biến G36D, trong khi 8 dòng chứa đột biến V38A. Các đột biến kép liên quan đến G36D và các chất khác trong miền HR1 cũng đã được xác định. Trong 5 trong số 49 dòng env, các đột biến khác liên quan đến các phần tử 32 (Q32R hoặc Q32H) và 39 (Q39R) đã được phát hiện kết hợp với G36D. Các chuỗi env đã được nhân bản từ virus huyết tương của chủ thể 30-3 cũng có các đột biến đơn trong chuỗi GIV (V38M và I37V) có thể phát hiện được sau khi điều trị bằng T-20. Virus huyết tương từ các chủ thể 30-2 và 30-4 không chứa những thay đổi trong chuỗi GIV. Để phân tích các thuộc tính kháng sinh sinh học của những đột biến này, chúng tôi đã phát triển một thử nghiệm xâm nhập HIV-1 một vòng mới sử dụng tế bào JC53BL, tế bào này thể hiện β-galactosidase và luciferase dưới sự kiểm soát của HIV-1 long terminal repeat. Các dòng env đầy đủ đã được thu nhận từ virus huyết tương của bệnh nhân 30-1 và 30-3 và được sử dụng để tạo ra các stock virus giả. Nồng độ ức chế 50% trung bình (IC 50 ) cho các đột biến G36D và V38A (bệnh nhân 30-1) lần lượt là 2.3 μg/ml và 11.2 μg/ml, có sự tăng đáng kể 9.1- và 45 lần, so với loại hoang dã. IC 50 cho đột biến V38 M (bệnh nhân 30-3) là 7.6 μg/ml, một sự tăng 8 lần so với loại hoang dã. Đột biến I37V dẫn đến một IC 50 lớn gấp 3.2 lần so với loại hoang dã. Các Envs với các đột biến kép (Q32R cộng với G36D và Q32H cộng với G36D) thể hiện mức độ kháng tương tự như G36D một mình. Những phát hiện này cung cấp bằng chứng đầu tiên cho sự xuất hiện nhanh chóng của kháng lâm sàng đối với một loại thuốc ức chế xâm nhập HIV-1 mới và có thể có liên quan đến các chiến lược điều trị trong tương lai liên quan đến các tác nhân này.

#HIV-1 #T-20 #đột biến kháng #ức chế fusion #điều trị kháng virus
Tổng số: 1,724   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10