Biến tần là gì? Các công bố khoa học về Biến tần
Biến tần (hay còn được gọi là inverter) là một thiết bị điện tử được sử dụng để điều chỉnh hay thay đổi mức điện áp và tần số của nguồn điện đầu vào để phù hợp ...
Biến tần (hay còn được gọi là inverter) là một thiết bị điện tử được sử dụng để điều chỉnh hay thay đổi mức điện áp và tần số của nguồn điện đầu vào để phù hợp với yêu cầu cụ thể của hệ thống. Biến tần thường được sử dụng để điều chỉnh tốc độ và điều khiển động cơ. Nó có thể biến đổi nguồn điện một chiều thành nguồn điện xoay chiều, và ngược lại. Biến tần còn được ứng dụng rộng rãi trong các hệ thống điện mặt trời và hệ thống điều hòa không khí.
Biến tần là một thiết bị điện tử có khả năng biến đổi nguồn điện đầu vào từ một dạng vào (ví dụ: điện áp thay đổi, tần số thay đổi) thành một dạng ra khác (ví dụ: điện áp đổi, tần số đổi) để phù hợp với yêu cầu của hệ thống.
Với đặc tính này, biến tần được sử dụng rộng rãi trong các ứng dụng điều khiển tốc độ và điều khiển động cơ, như trong công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng và gia đình. Bằng cách điều chỉnh tần số và điện áp đầu ra của biến tần, người dùng có thể điều chỉnh tốc độ vòng quay của động cơ theo ý muốn, giúp tiết kiệm điện năng và tăng hiệu suất hoạt động.
Nguyên lý hoạt động của biến tần là chuyển đổi nguồn điện đầu vào sang dạng sóng hình sin, thường là một sóng vuông hoặc sóng hình sin có biên độ và tần số điều chỉnh. Sau đó, sóng điện được biến đổi sang dạng sóng hình sin ưu đãi để đảm bảo cung cấp nguồn điện ổn định và tránh tác động đến thiết bị điện tử được điều khiển.
Biến tần được điều khiển thông qua bộ điều khiển, thường là bộ điều khiển logic (PLC) hoặc bộ điều khiển thông minh (SCADA). Bộ điều khiển này được sử dụng để lập trình, kiểm soát và giám sát các thông số tần số, điện áp và dòng điện của biến tần.
Một số lợi ích của việc sử dụng biến tần bao gồm:
- Tiết kiệm năng lượng: Biến tần giúp điều chỉnh tốc độ và mức công suất tiêu thụ của động cơ, giúp tiết kiệm điện năng khi không cần hoạt động ở mức tối đa.
- Điều khiển chính xác: Biến tần cho phép điều chỉnh tốc độ và vận hành động cơ theo các thông số cụ thể và đạt được độ chính xác cao.
- Bảo trì dễ dàng: Biến tần cung cấp thông tin về trạng thái hoạt động, mức độ hao mòn và cảnh báo khi có lỗi xảy ra, giúp giảm thời gian và chi phí bảo trì.
- Ổn định và linh hoạt: Biến tần giúp điều chỉnh tốc độ động cơ và tải, giảm các xung đột và bùng nổ tải, đảm bảo hoạt động ổn định và linh hoạt của hệ thống.
- Máy móc và thiết bị không bị sốc điện: Biến tần giúp điều chỉnh mức đầu ra điện áp và tần số, giảm nguy cơ thiết bị bị cháy nổ hoặc hư hỏng do dao động điện áp không ổn định.
Tổng quát, biến tần chủ yếu được sử dụng để điều chỉnh tốc độ và điều khiển động cơ trong các hệ thống công nghiệp và dân dụng, đem lại hiệu suất hoạt động tối ưu và tiết kiệm năng lượng.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "biến tần":
Các gen thụ thể tyrosine kinase đã được giải trình tự trong ung thư phổi không tế bào nhỏ (NSCLC) và mô bình thường tương ứng. Đột biến soma của gen thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì\n
Bệnh Parkinson (PD) là một rối loạn thần kinh thoái hóa phổ biến với tỷ lệ mắc cả đời khoảng 2 phần trăm. Một mẫu gia tăng phát tích trong gia đình đã được ghi nhận đối với rối loạn và gần đây đã có báo cáo rằng một gen gây nhạy cảm với PD trong một gia đình lớn ở Ý được định vị trên cánh dài của nhiễm sắc thể số 4 của người. Một đột biến đã được xác định trong gen α-synuclein, mã hóa cho một protein tiền synapse được cho là có liên quan đến tính dẻo thần kinh, trong gia đình Ý và ba gia đình không có quan hệ quen biết có nguồn gốc Hy Lạp với di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường đối với kiểu hình PD. Phát hiện này về một thay đổi phân tử cụ thể liên quan đến PD sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hiểu chi tiết cơ chế bệnh sinh của rối loạn này.
Mục đích chính của bài báo này là trình bày một số kiểm định thống kê mới về tính trung lập của các đột biến chống lại một lớp mô hình thay thế, trong đó các đa hình DNA có xu hướng thể hiện sự dư thừa của các alen hiếm hoặc các đột biến trẻ. Mục đích khác là nghiên cứu sức mạnh của các kiểm định hiện có và các kiểm định mới phát triển, cũng như xem xét chi tiết mô hình đa hình dưới ảnh hưởng của sự tăng trưởng dân số, hiện tượng hitchhiking di truyền và lựa chọn nền. Kết quả cho thấy rằng các mô hình đa hình trong một mẫu DNA dưới sự tăng trưởng dân số logistic và hiện tượng hitchhiking di truyền rất giống nhau và một trong các kiểm định mới phát triển, FS, mạnh hơn nhiều so với các kiểm định hiện có trong việc bác bỏ giả thuyết về tính trung lập của các đột biến. Lựa chọn nền tạo ra các mô hình đa hình hoàn toàn khác với sự tăng trưởng dân số logistic hoặc hiện tượng hitchhiking di truyền, mặc dù tất cả chúng đều cho thấy sự dư thừa của các alen hiếm hoặc các đột biến trẻ. Chúng tôi chỉ ra rằng các kiểm định của Fu và Li là một trong những kiểm định mạnh nhất chống lại lựa chọn nền. Các hệ quả của những kết quả này sẽ được thảo luận.
Các vòm băng thường hình thành ở hai đầu bắc và nam của eo biển Nares đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết xuất khẩu băng biển đa niên từ Đại dương Bắc Cực. Đại dương Bắc Cực đang tiến triển thành một khối băng trẻ hơn, mỏng hơn và di động hơn, và số phận của băng đa niên ngày càng trở nên quan trọng. Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã sử dụng dữ liệu vận động băng từ hình ảnh Sentinel-1 để báo cáo về hành vi gần đây của các vòm băng này và các dòng chảy băng liên quan. Chúng tôi chỉ ra rằng thời gian hình thành vòm băng đã giảm trong 20 năm qua, trong khi cả diện tích và thể tích băng dọc theo eo biển Nares đều gia tăng. Những kết quả này cho thấy một quá trình chuyển tiếp đang diễn ra tới một trạng thái mà sự hình thành của những vòm này sẽ trở nên không điển hình, kèm theo đó là sự gia tăng xuất khẩu băng đa niên, thúc đẩy quá trình chuyển đổi tới khối băng Bắc Cực trẻ và mỏng hơn.
Tetracyclines được phát hiện vào những năm 1940 và cho thấy hoạt tính chống lại nhiều vi sinh vật bao gồm vi khuẩn gram dương và gram âm, chlamydiae, mycoplasma, rickettsiae và ký sinh trùng nguyên sinh. Đây là những loại kháng sinh ít tốn kém, đã được sử dụng rộng rãi trong dự phòng và điều trị nhiễm khuẩn ở người và động vật cũng như ở mức độ dưới điều trị trong thức ăn chăn nuôi để thúc đẩy tăng trưởng. Vi khuẩn kháng tetracycline đầu tiên, Shigella dysenteriae, được phân lập vào năm 1953. Kháng tetracycline hiện nay xuất hiện ngày càng nhiều trong các vi khuẩn gây bệnh, cơ hội và cộng sinh. Sự hiện diện của các tác nhân kháng tetracycline hạn chế việc sử dụng các chất này trong điều trị bệnh. Kháng tetracycline thường là do sự thu nhận gen mới, mã hóa cho sự bơm đẩy tetracycline phụ thuộc năng lượng hoặc cho một loại protein bảo vệ ribosome của vi khuẩn khỏi tác động của tetracycline. Nhiều trong số các gen này liên quan đến plasmid di động hoặc transposon và có thể được phân biệt với nhau bằng các phương pháp phân tử bao gồm lai ghép DNA-DNA với đầu dò oligonucleotide và giải trình tự DNA. Một số lượng ít vi khuẩn có được sự kháng bệnh thông qua đột biến, thay đổi tính thấm của porin màng ngoài và/hoặc lipopolysaccharides trong màng ngoài, thay đổi điều tiết của hệ thống bơm đẩy bẩm sinh, hoặc thay đổi 16S rRNA. Đang có các dẫn xuất mới của tetracycline được nghiên cứu, mặc dù vai trò của chúng trong điều trị chưa rõ ràng. Cần thay đổi việc sử dụng tetracycline trong sức khỏe con người và động vật cũng như trong sản xuất thực phẩm nếu chúng ta muốn tiếp tục sử dụng loại kháng khuẩn phổ rộng này trong thế kỷ hiện tại.
Werner, Sabine và Richard Grose. Điều hòa quá trình lành vết thương bằng các yếu tố tăng trưởng và cytokine. Physiol Rev 83: 835–870, 2003; doi:10.1152/physrev.00032.2002.—Quá trình lành vết thương trên da là một quá trình phức tạp bao gồm đông máu, viêm nhiễm, hình thành mô mới và cuối cùng là tái tạo mô. Quá trình này đã được mô tả rõ ràng ở cấp độ mô học, nhưng các gen điều tiết sự hồi phục của da chỉ được xác định một phần. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm và lâm sàng đã chứng minh những tác động đa dạng, nhưng trong hầu hết các trường hợp là tích cực, của các yếu tố tăng trưởng ngoại sinh đối với quá trình lành vết thương. Tuy nhiên, vai trò của các yếu tố tăng trưởng nội sinh phần lớn vẫn chưa rõ. Các phương pháp ban đầu nhằm giải quyết câu hỏi này tập trung vào phân tích biểu hiện của các yếu tố tăng trưởng, cytokine và các thụ thể của chúng trong các mô hình vết thương khác nhau, với dữ liệu chức năng đầu tiên được thu thập thông qua việc áp dụng kháng thể trung hòa cho các vết thương. Trong những năm gần đây, sự xuất hiện của chuột được biến đổi gen đã cho phép làm sáng tỏ chức năng của các gen khác nhau trong quá trình lành vết thương, và các nghiên cứu này đã làm sáng tỏ vai trò của các yếu tố tăng trưởng, cytokine và các tác nhân hiệu ứng thứ cấp trong sự hồi phục vết thương. Bài tổng quan này tóm tắt các kết quả nghiên cứu biểu hiện đã được thực hiện trên chuột, lợn và người để xác định vị trí của các yếu tố tăng trưởng và các thụ thể của chúng trong các vết thương da. Quan trọng nhất, chúng tôi cũng báo cáo về các nghiên cứu di truyền nhằm giải thích chức năng của các yếu tố tăng trưởng nội sinh trong quá trình hồi phục vết thương.
Chúng tôi đã khảo sát gen prothrombin như một gen ứng cử viên cho huyết khối tĩnh mạch ở những bệnh nhân được chọn có tiền sử gia đình về thrombophilia tĩnh mạch đã được ghi nhận. Tất cả các exon và vùng 5′-UT và 3′-UT của gen prothrombin đã được phân tích bằng phương pháp phản ứng chuỗi polymerase và giải trình tự trực tiếp ở 28 bệnh nhân. Ngoại trừ các vị trí đa hình đã biết, không phát hiện sự biến đổi nào trong các vùng mã hóa và vùng 5′-UT. Chỉ có một sự thay đổi nucleotide (chuyển từ G sang A) tại vị trí 20210 được xác định trong chuỗi của vùng 3′-UT. Mười tám phần trăm bệnh nhân có kiểu gen 20210 AG, so với 1% trong nhóm đối chứng khỏe mạnh (100 đối tượng). Trong một nghiên cứu trường hợp - đối chứng dựa trên dân số, allele A 20210 được xác định là một allele phổ biến (tần suất allele, 1.2%; khoảng tin cậy 95%, 0.5% đến 1.8%), làm tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch tới gần ba lần (tỉ lệ odds, 2.8; khoảng tin cậy 95%, 1.4 đến 5.6). Nguy cơ huyết khối tăng ở mọi độ tuổi và giới tính. Một sự liên quan được tìm thấy giữa sự hiện diện của allele A 20210 và mức prothrombin cao. Phần lớn các cá nhân (87%) với allele A 20210 nằm trong tứ phân vị cao nhất của mức prothrombin huyết thanh (> 1.15 U/mL). Mức prothrombin cao cũng được phát hiện là một yếu tố nguy cơ cho huyết khối tĩnh mạch.
Các loại thuốc kết hợp với thủ thể opioid ngày càng được kê đơn nhiều hơn để điều trị các tình trạng đau mãn tính đa dạng và khác nhau. Việc sử dụng chúng để giảm đau cấp tính hoặc đau giai đoạn cuối đã được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, vai trò của chúng trong việc điều trị lâu dài cho đau mãn tính không do ung thư lại gây tranh cãi vì nhiều lý do. Một trong những lý do chính là hiện tượng nghiện tâm lý nổi tiếng có thể xảy ra khi sử dụng các loại thuốc này. Sự lạm dụng và chuyển hướng của các loại thuốc này đang trở thành một vấn đề ngày càng gia tăng khi tính sẵn có của các loại thuốc này tăng lên, và vấn đề sức khỏe cộng đồng này làm rối loạn hiệu quả lâm sàng của chúng. Hơn nữa, mức độ hiệu quả của chúng trong việc điều trị đau khi được sử dụng lâu dài chưa được chứng minh rõ ràng. Cuối cùng, vai trò của opioid trong điều trị đau mãn tính còn bị ảnh hưởng bởi việc chúng thường liên quan đến một số lượng lớn các tác dụng phụ và biến chứng đáng kể. Chính những hiện tượng này là trọng tâm của bài đánh giá này. Các tác dụng phụ phổ biến của việc sử dụng opioid bao gồm buồn ngủ, chóng mặt, buồn nôn, nôn, táo bón, sự phụ thuộc về mặt thể chất, dung sai, và suy hô hấp. Sự phụ thuộc thể chất và nghiện là những mối quan tâm lâm sàng có thể ngăn ngừa việc kê đơn đúng cách và dẫn đến chăm sóc đau không tối ưu. Các tác dụng phụ ít phổ biến hơn có thể bao gồm chậm làm rỗng dạ dày, nhạy cảm đau, rối loạn miễn dịch và nội tiết, cứng cơ, và co giật cơ. Các tác dụng phụ phổ biến nhất của việc sử dụng opioid là táo bón (có tỷ lệ rất cao) và buồn nôn. Hai tác dụng phụ này có thể rất khó kiểm soát và thường không phát triển sự dung sai; điều này đặc biệt đúng với táo bón. Chúng có thể nghiêm trọng đến mức cần ngừng sử dụng opioid, và đóng góp vào liều lượng thấp và chăm sóc đau không đầy đủ. Một số thử nghiệm lâm sàng đang được tiến hành để xác định các liệu pháp bổ sung có thể giảm nhẹ các tác dụng phụ này. Việc chuyển đổi opioid và/hoặc đường dùng thuốc cũng có thể mang lại lợi ích cho bệnh nhân. Sàng lọc bệnh nhân đúng cách, giáo dục, và điều trị dự phòng các tác dụng phụ tiềm tàng có thể giúp tối đa hóa hiệu quả và giảm bớt mức độ nghiêm trọng của tác dụng phụ và biến cố không mong muốn. Opioid có thể được coi là các tác nhân giảm đau phổ rộng, ảnh hưởng đến một số lượng lớn các hệ cơ quan và ảnh hưởng đến nhiều chức năng cơ thể. Từ khóa: Opioid, morphine, methadon, fentanyl, oxycodone, hydrocodone, oxymorphone, codeine, biến cố bất lợi, ma túy, tác dụng phụ, táo bón, sự phụ thuộc, mất thính giác, dung sai, nghiện, tăng cảm thụ đau
Gen
Peptit tổng hợp T-20 (enfuvirtide) đại diện cho loại thuốc kháng retrovirus mới đầu tiên cho thấy hiệu lực in vivo bằng cách nhắm vào một bước trong quá trình xâm nhập của virus. T-20 ức chế sự thay đổi cấu hình trong glycoprotein xuyên màng HIV-1 loại 1 (gp41) của virus HIV, sự thay đổi này là cần thiết cho sự hợp nhất giữa HIV-1 và màng tế bào mục tiêu. Giai đoạn thử nghiệm lâm sàng phase I đầu tiên của điều trị T-20 cho bệnh nhân nhiễm HIV đã cung cấp một cơ hội độc đáo để đánh giá sự xuất hiện của virus kháng thuốc in vivo đối với loại thuốc kháng retrovirus mới này. Tất cả bốn bệnh nhân được nhận một liều trung bình T-20 (30 mg hai lần mỗi ngày) đều có sự giảm đáng kể trong tải lượng virus huyết tương trong 10 ngày đầu nhưng có xu hướng tăng lên vào ngày thứ 14, cho thấy có sự chọn lọc cho virus kháng. Virus huyết tương được thu thập từ bệnh nhân tham gia vào tất cả các nhóm liều lượng trong thử nghiệm phase I T-20 đã được phân tích bằng phương pháp giải trình tự quần thể trước và sau điều trị. Mặc dù không có đột biến nào được phát hiện trong một chuỗi 3 axit amin rất bảo tồn (GIV) được biết là quan trọng cho sự hợp nhất tại cơ sở, sau 14 ngày điều trị, virus từ một bệnh nhân trong nhóm liều 30 mg (30-1) đã phát triển một đột biến trong motif này, cụ thể là sự thay thế axit aspartic (D) cho glycine (G) tại vị trí 36. Nhiều dòng
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10